Thế kỷ XVIII, Hồ Xuân Hương - Bà chúa thơ Nôm, nhân một lần ghé thăm Kẽm Trống, đã sáng tác bài thơ vừa lãng mạn, vừa giàu chất hiện thực:
Hai bên là núi, giữa là sông
Có phải đây là Kẽm Trống không
Gió dập cành cây khua lắc cắc
Sóng dồn mặt nước vỗ long bong …
Đã bao đời nay, du khách gần xa lui tới tham quan vãng cảnh Kẽm Trống, không quên một cổ tích của quần thể danh lam thắng cảnh này. Đó là một ngôi chùa tọa lạc ở lưng chừng núi Trinh Tiết thuộc thôn Động Xuyên, xã Thanh Hải, huyện Thanh Liêm.
Chùa có tên chữ “Phật Tích tự” tên Nôm “Trinh Tiết”
Núi Trinh Tiết ở bờ trái dòng sông Đáy, cùng các ngọn núi khác quần tụ, hợp với dòng nước uốn lượn, trong xanh thành bức tranh sơn thuỷ ngoạn mục. Chùa Phật Tích trông ra dòng sông Đáy, được xây dựng lại dưới chiều Lê Chung Hưng. Chùa kiến trúc kiểu chữ “Nhị” gồm hai toà, mỗi toà ba gian, đã trải qua nhiều lần trùng tu, lần gần đây nhất vào năm 1930. Chữ viết ở nóc Tiền đường ghi rõ: “Bảo Đại Canh Ngọ thập nhị nguyệt sơ lục nhật trùng tu”.
Bên phải chùa có ngôi miếu thờ “Thập Bát Long thần Chân tể ”-một vị thiên thần, dân gian tôn xưng là Đức ông. Ở cửa miếu còn câu đối theo kiểu nhấn vữa, phác hoạ phong cảnh nơi đây: “Thụ thập kỳ viên, cổ vãng kim lai quang bất tận. Sơn danh Trinh Tiết phong thanh nguyệt bạch hội thường vân”.
Tạm dịch: Vào đám cây trong chốn kỳ viên, xưa tới nay phong quang vô tận. Tên ngọn núi là Trinh Tiết, trăng trong gió mát vận hội canh tân.
Tuy xa làng xóm, nhưng chùa lại gần Quốc lộ 1A, nên thuận tiện khách thăm quan. Theo tuần tiết, chùa Phật Tích quanh năm vẫn đều đặn khói hương. Đâu chỉ lễ Phật nhân dân trong vùng còn đến thắp hương tưởng niệm vị công chúa thời Trần được thờ ở Hậu cung chùa.
Chuyện kể rằng: tháng 3 năm Mậu Dần (1389), Hồ Quý Ly bắt ép vua Trần Thuận Tông phải đi tu ở cung Bảo Thanh và nhường ngôi cho Thái tử Trần An mới 3 tuổi. Trần Thị Bạch Hoa, chị gái của Thái Tử, lúc đó mới 17 tuổi được Hồ Nguyên Trừng thương tình, cho người đem thuyền chở đi lánh nạn. Nguyễn Bằng Cử bí mật hộ tống. Tới Kẽm Trống, thấy phong cảnh hữu tình, bà cho thuyền đậu lại, chọn đất dựng chùa, dốc lòng thờ phật làm việc công đức cho dân. Rồi về sau bà thác tịnh tại đây.
Câu đố chùa cho biết nguồn gốc của chùa Trinh Tiết:
Trần triều thuỷ tạo lưu thiên tích
Chúa Nguyễn trùng tu sáng phật đài
Nghĩa là: Chùa dựng từ triều Trần để lại dấu vết người đầu tiên. Các chúa Nguyễn qua đây cho phép sửa lại chùa tạo thêm đài thờ Phật.
Việc thờ Bạch Hoa công chúa có liên quan đến tên núi, tên chùa. Có hai thuyết:
Thuyết thứ nhất cho rằng, tên núi Trinh Tiết có trước, rồi chùa mới đặt tên núi, chùa được dựng lên để mong tích tụ khí thiêng của Trời và tinh tuý của Đất. Thuyết thứ hai cho rằng, tên núi gọi theo tên chùa, vì chùa thờ một vị công chúa thời Trần chưa có chồng, còn nguyên vẹn trinh tiết. Chuyện ấy để dành cho các nhà khảo cứu xác minh. Đối với nhân dân địa phương thì dốc lòng thành kính lễ Phật, lễ Bà, không chỉ cúng lễ mà định kỳ mở hội chùa đông vui, trọng thể.
Trong số các du khách đã vãng cảnh chùa, có các vị vua, chúa, những cao nhân mặc khách, kể cả người nổi tiếng trên văn đàn thủa trước. Tại chùa và trong dân gian còn lưu trữ một số bài thơ đề vịnh chùa Trinh Tiết, giàu giá trị văn hoá, giá trị nhân văn.
Tháng 11 năm Canh Tuất (1430) vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) cầm quân đi đánh Bế Khắc Triệu, Nông Đắc Thái ở chân Thạch Lâm (Cao Bằng ngày nay). Thuyền Ngự dừng nơi Kẽm Trống, vua lên núi vãng cảnh và để lại bài thơ “Đề chùa Phật Tích”
Sân chùa lá đỏ đang rơi
Chiều hôm lên núi nghỉ ngơi sao buồn
Rêu phong gạch ngói xanh rờn
Ở bên tượng hỏng may còn bát nhang
Thời bình nay đã bước sang
Lòng người thì vẫn nước làng năm xưa
Thương thay cảnh vật hoang sơ
Nhà Trần công chúa phụng thờ có thiêng
Phò một trong xứ hương thôn
Chấn hưng cơ nghiệp tiền nhân dựng nền
Thời vua Lê – Chúa Trịnh, Thái sư Trịnh Kiểm đi đánh Mạc Phúc Nguyên thường qua vùng này, cũng đã sáng tác bài thơ vịnh chùa Phật tích:
Lên bờ chiều tới nơi chân núi
Đường đá vin cây bước bước lên
Mưa móc ướt thân người bái Phật
Đường hoàng pho tượng vị trinh tiên
Nghe rằng gửi xác hàm rồng nọ
Lánh nạn tu đây dựng cảnh thiền
Mười năm thập kỷ người tôn kính
Vì dạ cao kiên tao dựng nên
Danh sỹ Bùi Huy Bích, khi vãng cảnh chùa đề vịnh một bài thơ thấm thía nỗi buồn man mác:
Núi tên Trinh tiết năm nào
Mà ngôi chùa ấy ai vào dựng nên
Non ai cây mọ xanh đen
Hát giang lớn nhỏ thuyền chen mái chèo
Trong thôn nói lại vài điều
Tượng đá công chúa tiên chiều tại đây
Cầu cho nạn khỏi tai bay
Nén hương trầm kín tỏ bày nỗi riêng
Việc đời dời đổi cảnh thiền
Mái tường dột nát bóng xiên trời chiều…
Thi hào Nguyễn Du qua chùa sáng tác bài thơ đầy lòng thương cảm về công chúa Bạch Hoa:
Chán đời bụi bặm vào trong núi
Gửi tấm thân tàn một thảo am
Quốc tặc đã đành không giải cứu
Nhân tình đâu chuyện nghĩ đa mang
Gió trăng mát mẻ nguôi trần hận
Hoa cỏ thơm tho cúng phật đàn
Công chúa triều Trần năm trước đấy
Vài vần nhắn nhủ khách du quan
Theo mạch ấy, nhưng mang ý nghĩa tôn vinh, là bài thơ đề năm sáng tác 1820 của tri phủ Nghĩa Hưng Ngô Văn Thành:
Một non, một nước, một người xinh
Vì mến tiết cao nên có thế
Từ trần hương khói vẫn nguyên lành
Danh lam như còn vang vọng âm hưởng những bài thơ xưa ngợi ca non nước hữu tình và huyền tích một nàng công chúa … Chùa Trinh Tiết đã và đang mời gọi du khách gần xa.