Có thể nói, đó là lời từ trái tim vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc, suốt
đời chỉ canh cánh bên lòng điều tâm huyết cháy bỏng: Làm cho nước nhà được độc
lập, tự do; đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc và được học hành.
Xét trên bình diện nội dung một văn bản chính trị, thì đó là một công
trình tổng kết lý luận-thực tiễn rất sâu sắc về mục đích cách mạng, phương thức
tiến hành để đạt được mục tiêu cao đẹp mà cả Đảng và dân tộc đều mong muốn. Xét
trên góc độ tuyên truyền, thì bản Di chúccoi như một “lời hịch”
động viên, cổ vũ toàn dân ta đoàn kết lại, chung lòng, chung sức đánh thắng
ngoại xâm, xây dựng Tổ quốc Việt Nam thống nhất, giàu mạnh, hùng cường, góp sức
tích cực vào phong trào cách mạng thế giới.
Một trong những điều Bác căn dặn đầu tiên là “Trước hết nói về Đảng”.
Khẳng định những thành tựu lớn lao của Đảng từ ngày thành lập, Bác chỉ rõ
nguyên nhân hàng đầu là nhờ Đảng ta “đoàn kết chặt chẽ”, đoàn kết trong
nội bộ Đảng, đoàn kết với nhân dân và đoàn kết quốc tế. Vì vậy, không ngẫu
nhiên, trong số lượng chữ có hạn của bản Di chúc, Bác 7 lần nhắc
chữ đoàn kết và nhấn mạnh rằng: “Đoàn kết là một truyền
thống cực kỳ quý báu của Đảng ta và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến
các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi
của mắt mình”.
Đây là sự tổng kết sâu sắc trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng trên
cương vị là lãnh tụ cao nhất từ ngày lập Đảng đến lúc đi xa, với bao trải
nghiệm từ khi Đảng mới có 5.000 đảng viên đã tiến hành tổng khởi nghĩa Tháng
Tám thắng lợi, cho đến khi giành chính quyền về tay, vừa kháng chiến vừa kiến
quốc, khi thuận lợi, lúc khó khăn; có thời kỳ mắc sai lầm, vấp váp. Vì thế, một
“phương thuốc kỳ diệu” là “Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và
nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển
sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”.
Nhưng theo Bác, “Đảng ta là một Đảng cầm quyền”, Đảng là “con
nòi của dân tộc”, nhưng lại là công bộc, người đầy tớ trung thành của nhân
dân. Vì vậy, “mỗi cán bộ và đảng viên phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách
mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”.
Từ Chỉ thị 03 ban hành năm 2003, đến Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị (năm
20016) về “Tiếp tục học và làm theo tấm gương tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh”, tiếp đến Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khóa XI, XII ra Nghị
quyết về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trên thực chất là cụ thể hóa lời
Bác căn dặn trong Di chúc từ năm 1969. Các tầng lớp nhân dân
đồng tình và hoan nghênh sự chỉ đạo của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú
Trọng nêu chủ trương xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới: “Xây thường
xuyên, chống quyết liệt” với phương châm “đánh chuột không vỡ bình”, “kỷ luật
một vài người để cứu muôn người”, “xử lý nghiêm túc và nhân văn”… Đến nay đã có
hơn 60 cán bộ cao cấp (cả đương chức và về hưu) đã bị nhận kỷ luật ở các mức
khác nhau, trong đó có cả 9 Ủy viên Trung ương, nguyên Ủy viên Trung ương (một
Ủy viên Bộ Chính trị).
Mới đây, tại cuộc họp Bộ Chính trị bàn về chủ đề này, đồng chí Nguyễn
Phú Trọng một lần nữa khẳng định: Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu
cực vẫn tiếp tục, không ngừng nghỉ, không có vùng cấm, không có ngoại lệ. Thực
tiễn ấy đã lấy lại niềm tin của nhân dân vào Đảng; và, việc đoàn kết trong nội
bộ Đảng dần được tăng cường; quan hệ giữa dân và Đảng thêm gắn bó. Đó chính là
động lực thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển (năm 2018, tốc độ tăng trưởng đạt
7,08% - vượt chỉ tiêu Quốc hội đề ra).
Nhưng đoàn kết trên cơ sở nào? Trong Di chúc,
Bác Hồ chỉ rõ: “nhờ một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục
vụ Tổ quốc” cho nên Đảng ta đã đi từng thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Như vậy, đoàn kết được hình thành từ ba nhân tố quan trọng:
Phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc. Do đó, nếu mỗi cán bộ,
đảng viên chỉ tìm cách vun đắp lợi ích riêng, coi nhẹ hoặc quay lưng lại lợi
ích chung thì lập tức nội bộ nảy sinh sự thiếu thống nhất về chủ trương, chính
sách; mà một khi tình trạng đó kéo dài, thì dẫn đến hiện tượng mất đoàn kết.
Thực tiễn chỉ ra rằng, ở một số cơ quan, đơn vị, địa phương để xảy ra
mất đoàn kết chủ yếu là do chủ nghĩa cá nhân, là sự “kéo bè kéo cánh” của
các “nhóm lợi ích” về kinh tế, về cán bộ… Do đó, trong Di
chúc, Bác lưu ý, chỉ có thể khắc phục chủ nghĩa cá nhân khi “mỗi đảng
viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư”.
Với Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII), Đảng ta đã cụ thể hóa lời dạy
của Bác, nêu rõ 27 biểu hiện về suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống; về “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Mới đây, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa XII lại ra Nghị quyết về trách nhiệm nêu gương, trước hết là người
đứng đầu, trong đó là các Ủy viên Trung ương, Ban Bí thư và Bộ Chính trị. Đây
là chủ trương đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, được nhân dân hoan nghênh và
kỳ vọng…
Sau phần căn dặn về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; bồi dưỡng các thế hệ thanh
niên thành lớp người “vừa hồng vừa chuyên”, Bác nói về “nhân dân lao
động”. Từ đây đến cuối Di chúc, có 14 lần Bác nhắc chữ nhân
dân.
Là nhà chính trị lỗi lạc, nhà văn hóa kiệt xuất, Bác thấm sâu truyền
thống “lấy dân làm gốc” của các vị vua anh minh, nhân hậu trong lịch sử dựng
nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, mà người Anh hùng Nguyễn Trãi đã tổng
kết “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”; “chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là
dân”. Bác đề cao phẩm chất cao đẹp của nhân dân ta: “rất anh hùng, rất dũng
cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất
trung thành với Đảng”. Nhưng với Bác, để thể hiện lòng yêu kính, biết ơn
nhân dân, không thể là lời nói suông, dùng những tính từ hoa mĩ, mà phải thật
sự hành động, chăm lo cả về vật chất và tinh thần, “không ngừng nâng cao đời
sống của nhân dân”, để “cây đại thụ nhân dân” sâu rễ, bền gốc.
Trong phần viết bổ sung Di chúc vào tháng 5/1969, Bác
đề nghị: Sau khi kết thúc chiến tranh, Nhà nước nên miễn thuế nông nghiệp một
năm cho nông dân. Trước đó, trong một bài viết, Bác đã biểu dương kinh nghiệm
của Quảng Bình dựa vào nhân dân để thực hiện chiến tranh nhân dân, khơi gợi sức
mạnh của mọi người dân để góp sức “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Đã
không ít lần, Bác căn dặn các cơ quan, đơn vị, địa phương: “Việc gì có lợi cho
dân dù nhỏ nên cố gắng làm; việc gì có hại cho dân dù nhỏ cũng hết sức tránh”.
Bác viết câu ca dao có tính chất triết lý sâu xa: “Gốc có vững, cây mới bền/
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”.
Đến đây, tôi càng hiểu vì sao năm 1950, các đồng chí lãnh đạo quân đội
nhân dân xuất bản tờ nhật báo khổ rộng, xin ý kiến Bác đặt tên báo, Bác nói
ngay: Quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, vậy nên đặt tên
báo là báo Quân đội nhân dân. Sau này, nhiều đồng chí mới thấm
thía vì sao Bác đề nghị ủy ban các cấp đều mang tên là ủy ban nhân dân; nhiều
tờ báo mang tên nhân dân, như Công an nhân dân, Người đại biểu nhân
dân, v.v… Riêng báo Nhân Dân, theo măng sét mới từ năm
1997, có thêm dòng thứ hai là: “Tiếng nói của Đảng, Nhà nước và nhân dân
Việt Nam”.
Và một điều tưởng là nhỏ, nhưng có ý nghĩa rất thiêng liêng, đó là khi
Quốc hội khóa XIII thảo luận thông qua Hiến pháp 2013 (sửa đổi
và bổ sung) đã nhất trí viết hoa chữ Nhân Dân trong đạo luật
gốc của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam!
Vậy là, toàn bộ tư tưởng, tình cảm của Bác Hồ được thể hiện sâu sắc qua Di
chúc, trong đó tư tưởng lấy dân làm gốc, đã, đang và mãi mãi
soi sáng con đường xây dựng Tổ quốc Việt Nam thống nhất, giàu mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh; phấn đấu sánh vai với các cường quốc năm châu - như tâm
nguyện của Người từ trước lúc đi xa!
PGS.TS. Nguyễn Hồng Vinh
Nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Tổng biên
tập báo Nhân Dân