Skip Ribbon Commands
Skip to main content

Các nhà khoa bảng Hà Nam (phần III)

Lịch sử - Văn hóa Danh nhân Hà Nam  
Các nhà khoa bảng Hà Nam (phần III)

21. Nguyễn Sư Hựu (1500-1585)

Nguyễn Sư Hựu sinh năm Canh Ngọ (1500), mất năm Ất Dậu (1585), thọ 86 tuổi. Quê ông là xã Cát Đàm, huyện Thanh Liêm, nay thuộc xã Liêm Thuận, huyện Thanh Liêm.

Đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Quý Mùi niên hiệu Thống Nguyên thứ 2(1523), đời Lê Cung Hoàng. Làm quan đến Lễ bộ Thượng thư, Thiếu bảo, Đông các đại học sĩ

22. An Khí Sử (1506-1582)

Sinh năm 1506, mất năm 1582. có sách chép là Ngô Khí Sử. Quê xã Nễ Độ, huyện Nam Xương, nay là thôn Nga Khê, xã Nguyên Lý, huyện Lý Nhân.

24 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ, xuất thân khoa Kỷ Sửu niên hiệu Minh Đức thứ 3 (1529), đời Mạc Đông Dung. Làm quan chức Tự Khanh, sau thăng Thị Lang.

23. Phân Tế (1510-1575)

Phan Tế sinh năm 1510, mất năm 1575. Quê xã Nhật Xá, huyện Duy Tân nay thuộc huyện Duy Tiên. Nguyên quán xã Nguyễn Xá, huyện Thạch Thất, Hà Tây (Nay thuộc thôn Chàng, xã Thạch Xá cùng huyện).

Năm 20 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Sửu niên hiệu Minh Đức thứ 3 (1529) đời Mạc Đăng Dung. Làm quan Thừa chính sứ tước Nam.

24. Phạm Đãi Đán (1518-1590)

Phạm Đãi Đán sinh năm Mậu Dần (1518), mất năm Canh Thìn (1590), quê xã Lôi Hà huyện Nam Xương, nay là xã Trác Văn, huyện Duy Tiên.

Ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Mậu Tuất niên hiệu Đại Chính thứ 9 (1538), đời Mạc Đăng Doanh. Làm quan, chức Công khoa đô cấp sự trung.

25. Trần Văn Bảo (1524-1586)

Có tài liệu chép Trần Văn Bảo sinh năm 1523, mất năm 1610. Nguyên quê gốc ở xã Cổ Chử huyện Giao Thủy, nay là làng Dứa, xã Đông Quang, huyện Giao Thuỷ; sau dời đến ẩn náu, lập ấp ở thôn Phù Tải, xã Yên Đổ (nay thuộc xã Trung Lương ), huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.

Năm 27 tuổi, đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ đệ nhất danh (Trạng nguyên), khoa Canh Tuất (1550) niên hiệu Cảnh Lịch thứ 3, đời Mạc Phúc Nguyên. Từng làm Chánh sứ sang Trung Quốc. Làm quan đến Thượng thư, tước Nghĩa quận công. Ông là cha của Tiến sĩ  Trần Đình Huyên, em của Tiến sĩ  Trần Văn Hòa.

26. Vu Hoán (1524-1607)

Vu Hoán sinh năm Giáp Thân (1524), mất năm Đinh Mùi (1607), quê xã Hồng Khê, Duy Tân nay là xã Yên Lam, huyện Duy Tiên.

Đỗ Đệ nhị giáp đồng chế khoa xuất thân khoa Giáp Dần, niên hiệu Thuận Bình thứ 6 (1554), đời Lê Trung Tông. Làm quan chức tham chính, tước Nam

27. Bùi Đình Tán (1532-1609)

Sinh năm 1532, mất năm 1609.  Quê xã Phượng Lâu, huyện Nam Xương, phủ Lị Nhân nay thuộc huyện Lý Nhân.

Bùi Đình Tán đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Bính Thìn, niên hiệu Quang Bảo thứ 2 (1556), đời Mạc Phúc nguyên.  Làm quan Cấp sự bộ Công, Thừa chính sứ.

28. Nguyễn Diến (1543-1606)

Nguyễn Diến sinh năm Quý Mão (1543), mất năm Bính Ngọ (1606), quê xã Văn Thái, Duy Tân nay là thôn Văn Thái, xã Bạch Thượng, huyện Duy Tiên.

Năm 35 tuổi ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Đinh Sửu, niên hiệu Sùng Khang thứ 12 (1577) đời Mạc Mậu Hợp, Làm quan đến chức Binh bộ hữu thị lang, sau ông theo về nhà Lê, giáng xuống làm Tham chính.

29. Nguyễn Văn Tĩnh (1543-1622)

Nguyễn Văn Tĩnh sinh năm Quý Mão (1543), mất năm Nhâm Tuất (1622). Quê ông ở xã Nễ Độ, huyện Nam Xương, nay thuộc huyện Lý Nhân.

Ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Đinh Sửu, niên hiệu Sùng Khang thứ 12 (1577), đời Mạc Mậu Hợp. Làm quan, chức Đề hình giám sát ngự sử

30. Trần Ngọc Du (1613-1698)

Trần Ngọc Du tự là Khoan Nghi, sinh ngày 23 tháng 10 năm Quý Sửu (1613) tại làng Phù Tải, An Đổ, Bình Lục phủ Lị Nhân (nay là làng Phù Tải, Trung Lương, Bình Lục, Hà Nam). Bố là Trần Ngọc Lâm, nguyên gia đình chuyển từ làng Cổ Chử, huyện Giao Thủy, trấn Sơn Nam Hạ, nay thuộc Nam Định từ đời cụ Trần Văn Bảo làm quan thượng thư triều Mạc. Ông Trần Ngọc Lâm là con thứ 3 của cụ Trần Văn Bảo, theo cha về làng Phù Tải, sau đó lấy vợ và sinh con cái ở đó.

Khi bị kẻ cừu thù là Phạm An đem bọn cướp đến đốt nhà lấy của cải, ông phải đưa cả gia đình đến kinh đô cầu thầy giúp đỡ. Bấy giờ Hoằng tổ Dương Vương (Trịnh Tạc) phụ chính trong nước, ông tiến con gái thứ hai lấy Thế tử Trịnh Căn. Sau đó ông đi thi và đỗ Tạo sĩ (tức Tiến sĩ võ), rồi được phong chức Thị hậu. Sau được phong tước Vinh Thọ hầu; lại được phong tặng Thượng tướng quân, Bắc quân Đô đốc phủ Thiêm Sự, Sách quận công. Ông mất ngày 27 tháng 10 năm Mậu Dần (1698) niên hiệu Chính Hoà, thọ 85 tuổi; được ban thụy là Liêm Cần. Mộ hiện nay vãn còn tại làng Phù Tải.

31. Phạm Viết Tuấn (1631-1722)

Phạm Viết Tuấn sinh năm Tân Mùi (1631), mất năm Nhâm Dần (1722). Ông quê xã Lạc Tràng, huyện Kim Bảng, nay là thôn Lạc Tràng xã Lam Hạ, huyện Duy Tiên.

Năm 40 tuổi ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Tuất niên hiệu Cảnh Trị thứ 8 (1670), đời Lê Huyền Tông.

Làm quan đến chức Giám sát ngự sử, vì có nhiều lời nói thẳng, nên bị gièm pha, trở thành đắc tội với triều đình. Sau khi mất, lại được phục chức.

32. Trần Ngọc Huy (1649-1698)

Trần Ngọc Huy tự là Cẩn Độ, thụy là Đoan Phúc. Sinh ngày 12 tháng 3 năm Kỷ Sửu (1649), tai thôn Phù Tải, xã Yên Đổ, huyện Bình Lục, phủ Lị Nhân, nay là thôn Phù Tải, xã Trung Lương, huyện Bình Lục. Bố là Trần Ngọc Du, mẹ là Hà Thị Hào người thôn Vôi Cầu, xã An Tập, cùng huyện. Ông thi đỗ Tạo sĩ (Tiến sĩ võ). Chiêu tổ Khang Vương (Trịnh Căn) thấy ông có tài liền cho làm Điện tiền hô hiệu điểm, tước Gia Trạch hầu. Sau được phong Đặc tiến phụ quốc, Thượng tướng quân, Tham đốc thần vũ tự vệ quân sự vụ. Ông mất ngày 29 tháng 2 năm Mậu Dần (1698).

33. Trương Công (1665-1728)

Trương Công (sau đổi là Trương Công Giai, hay Khải) sinh năm Ất Tỵ (1665), trú sở Thiên Kiện, nay là xã Thanh Tâm, huyện Thanh Liêm. Năm 21 tuổi ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Ất Sửu (1685), niên hiệu Chính Hoà thứ 6, đời Lê Hy Tông.

Năm 1707 ông được phong Công bộ hữu thị lang. Năm 1711, lại giữ chức Phó đô ngự sử. Năm 1718 Trương Công Giai được cử đi chấm thi, duyệt quyển kỳ thi Hương. Năm 1720, Thượng thư Trương Công Giai được ban tước Quận công.

Năm 1724 đời vua Lê Dụ Tông, ông bị giáng chức từ Hình bộ Thượng thư xuống làm Lại bộ tả thị lang. Lúc ấy, có người huyện Dương Đào kiện là bị ông xét án hồ đồ và xin chống án. Triều đình giao cho xử lại, người ấy lý thắng được kiện. Chúa Trịnh cho rằng Trương Công Giai trước đây làm quan Ngự sử không xét lại oan cho người ta, nên phải giáng chức.

Năm Bính Ngọ (1726), chúa Trịnh sai Quan Công Phiên đi kiểm tra lại tiền thu thuế của quan chức các nơi, vì có hiện tượng biển lận. Tô Thế Huy và  Nguyễn Công Dũng lấy danh nghĩa là Bộ Công phúc thẩm lại, bác việc nghị án tha tội trên. Tô Thế Huy bị cách chức Công bộ tả thị lang xuống làm Hữu thị lang và Nguyễn Công Dũng từ Công bộ hữu thị lang xuống làm Hàn Lâm, vì tội cẩu thả xử không đúng hình phạt. Triều đình lại phục chức Hình bộ thượng thư cho Trương Công Giai. Ngày 8 tháng 2 năm Mậu Thân (1728), Trương Công Giai mất, thọ 63 tuổi, được truy phong hàm Thiếu bảo.

34. Nguyễn Công Thành (1662-?)

Ông sinh năm Nhâm Dần (1662), không rõ năm mất. Người làng Dưỡng Hòa, huyện Duy Tân, nay là Dưỡng Mông, xã Tiền Phong, huyện Duy Tiên.

Đỗ Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (?) niên hiệu Chính Hòa thứ 13, đời Lê Hy Tông (1693).

35. Trương Minh Lượng (1636-1712)

Trương Minh Lượng tên húy là Trường, thụy là Thanh Cần. Ông sinh năm Bính Tý (1636), mất ngày 24/2 năm Nhâm Thìn (1712). Quê ông là xã Ngô Xá huyện Duy Tân, nay là thôn Ngô Trung, xã Tiên Nội, huyện Duy Tiên.

Năm 35 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Thìn niên hiệu Chính Hoà thứ 21 (1700), đời Lê Hy Tông. Ông làm quan đến chức Tự khanh.

Hiện còn hai sắc phong đời Khải Định (Khải Định năm thứ 2 và Khải Định năm thứ 9) ở nhà thờ họ Trương và còn một tấm bia cao 2,2m  rộng 1,38m hình thức giống bia văn miếu để ghi nhớ công tích của Trương Minh Lượng.

Trương Minh Lượng là con rể ông Hoàng Công Trí (Tiến sĩ năm 1670, làm quan đến Lại bộ thượng thư). Vợ ông Lượng là bà Hoàng Thị Huệ, một người con gái của ông Lượng bà Huệ là Trương Thị Ích. Bà Ích là vợ Tiến sĩ Lê Phú Thứ ở Duyên Hà, Thái Bình, sinh ra nhà bác học Lê Quý Đôn. Vậy Trương Minh Lượng là ông ngoại của Lê Quý Đôn.

36. Trần Ngọc Cáp (1684-1748)

Trần Ngọc Cáp (tự là Trung Tín) sinh ngày 19/4 năm Giáp Tý (1684), tại thôn Phù Tải, xã An Đổ, huyện Bình Lục, phủ Lị Nhân nay là thôn, Phù Tải, xã Trung Lương, huyện Bình Lục. Ông là hậu duệ của Tiến sĩ Trần Văn Bảo. Bố là Trần Ngọc Khuy, mẹ là Nguyễn Thị Trinh Khiết. Ông thi đỗ Tạo sĩ (Tiến sĩ võ) thời Hậu Lê. Làm chức Chi thụ chánh đội trưởng. Sau được phong Thùy dụ bá.

Ông mất ngày 17/10 năm Mậu Thìn (1748), thọ 65 tuổi.

37. Nguyễn Quốc Hiệu (1696-1772)

Nguyễn Quốc Hiệu sinh năm Bính Tí (1696), tại xã Phú Thứ, huyện Duy Tân, Phủ Nam Xang, nay là thôn Phú Thứ, xã Tiên Hiệp, huyện Duy Tiên. Năm 41 tuổi ông đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ đệ tam danh (Thám Hoa) khoa Bính Thìn, niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 2 (1736), đời Lê Ý Tông.

Làm quan, chức Hiến sát sứ.

38. Nguyễn Tông Mại (1706-1761)

Nguyễn Tông Mại sinh năm Bính Tuất (1706) tại thôn Vị Hạ, xã Yên Đổ, huyện Bình Lục, phủ Lí Nhân, nay là thôn Vị Hạ, xã Trung Lương, huyện Bình Lục, là hậu duệ của Quang Lượng Hầu, một võ tướng thời nhà Mạc, quê gốc ở Nghệ An, Được triều đình cử về dẹp loạn cướp, rồi mất tại Cầu Ghéo (Bình Lục).

Tiến sĩ Nguyễn Tông Mại tên thật là Điều, hiệu là Thận Trực, thụy là Phụng Chính. Nhà có 4 anh em, cả là Tôn Hán, thứ hai là Tôn Mại (sau đổi thành Tông Mại) thứ ba là Bá Phấn, út là Nguyễn Thị Hồ. Ông là tổ phụ của thi hào Nguyễn Khuyến.

Đời Lê Ý Tông, niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 2 khoa Bính Thìn (1736) ông đỗ Tiến sĩ, được nhận chức Hàn lâm viện đại chế. Ông vốn tính kiên trực, vì vậy làm quan lâu năm nhưng không thăng tiến, bổng lộc ít ỏi. Về sau ông làm tri phủ Khoái Châu (Hưng Yên) được dân tin yêu, được thăng làm Hiến sát sứ Thanh Hoa (Thanh Hoá). Bấy giờ có em vợ của Chúa Trịnh là Ba Trà, cậy thế chị làm càn, thường đến các thôn ấp đánh người, cướp của, hiếp dâm. Ông đã thẳng tay trừng trị bắt và đánh 30 roi rồi cho về. Trịnh Vương biết chuyện, nhưng hành động của Nguyễn Tông Mại là chính đáng, nên Chúa không có cơ sở nào để bắt tội được. Ông mất ngày 14 tháng 2 năm Tân Tỵ (1761), thọ 55 tuổi.

Nguyễn Tông Mại là người thanh liêm, chính trực, giỏi thơ văn, có tập Nam chân dật ký còn truyền lại. Thi hào Nguyễn Khuyến chịu ảnh hưởng nhiều cốt cách và thơ văn ông.

39. Nguyễn Kỳ (1715-1787) 

Nguyễn Kỳ sinh ngày mồng một tháng Giêng năm Ất Mùi (1715) (có sách chép sinh năm 1818) tại xã An Lão, tổng Mai Động, huyện Bình Lục, phủ Lý Nhân. Cha mẹ mất sớm, nhà nghèo, nhưng Nguyễn Kỳ rất ham học. Năm 31 tuổi (1745) niên hiệu Cảch Hưng thứ 5, ông đỗ thủ khoa thi Hương. Năm 34 tuổi khoa Mậu Thìn, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 9 (1748) ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân được bổ nhiệm Án sát Sơn Tây. Vài năm sau, thăng bổ làm Tổng đốc Tuyên Quang. Ngoài 50 tuổi, ông được phong Chánh nhất phẩm Đông các điện đại học sĩ kiêm Quốc tử giám tế tửu, tước Mai Phong bá.

Là một học trò nghèo, mồ côi từ nhỏ, Nguyễn Kỳ chăm chỉ kiếm ăn và học lỏm chữ thầy. Thấy Nguyễn Kỳ thông minh, thầy đồ đã bỏ công dạy dỗ. Tương truyền, lúc ngoài 20 tuổi Nguyễn Kỳ vẫn sống độc thân, dùi mài kinh sử trong một căn nhà tranh nhỏ. Đêm 30 tháng Chạp năm Giáp Tý (1744), Nguyễn Kỳ vừa đun bếp vừa đọc sách, chẳng may tàn lửa bay lên làm cho ngôi nhà ù ù bốc cháy, dân làng trống mõ inh ỏi kéo đến cứu chữa, nhưng không kịp. Sáng hôm sau, mồng một Tết thầy đồ đến thăm, thấy giữa đống tro tàn, Nguyễn Kỳ đã đắp một bệ đất để đặt bát hương thờ tổ tiên, bên cạnh đề một bài thơ:

                                            Một phút làm nên rạng tổ tông,
                                            Tàn bay đỏ khắp mái tây đông
                                            Vang lừng trống đánh trong làng nước
                                            Nam bắc nơi nơi biết tiếng ông.

Thầy đồ đứng gật gù: Trò Kỳ ắt làm rạng rỡ tổ tông, ngày tàn lọng đón rước quan tân khoa vinh quy bái tổ không còn xa nữa.

Quả nhiên, khoa thi Hương năm ấy, Nguyễn Kỳ đỗ thủ khoa, 4 năm sau ông đỗ Tiến sĩ. Dân làng An Lão dựng đình để đón quan nghè trên nền nhà Nguyễn Kỳ ở cũ. Sau chính thầy đồ đã đề tặng đôi câu đối:

                                            Đông các danh thân lưu cố tri,
                                            Lê triều Tiến sĩ thụ tiền nha.
(Làm đến chức Đông các đại học sĩ danh lưu sử sách; Là Tiến sĩ triều Lê gieo mầm khoa cử đầu tiên cho quê nhà ).

40. Lý Trần Thản (1721-1776)

Lý Trần Thản quê ở Lê Xá, xã Châu Sơn, huyện Duy Tiên. Ông sinh ngày 12 tháng Ba năm Tân Sửu (1721), đỗ Tam trường đời Lê Cảnh Hưng thứ 4. Làm Tri huyện Phú Xuyên 21 năm. Ông là con rể của Bảng nhãn Lê Quý Đôn.

Năm Cảnh Hưng thứ 27, vua Lê Hiển Tông mến trọng tài năng vời ông về kinh đô phong tước hầu, chức Hữu Thị lang, đặc trách dạy dỗ các con vua. Năm 48 tuổi Lý Trần Thản đỗ Tiến sĩ khoa Kỷ Sửu, năm 1769. Do tài “văn võ song toàn” được vua giao trấn giữ Hưng Hóa (Phú Thọ, Sơn Tây) đốc lĩnh các đạo quân ở Tuyên Hưng, được phong Tuy Viễn hầu, Thượng thư bộ binh.

Ông mất ngày 14 tháng Hai năm Bính Thân 1776, thọ 56 tuổi.